ĐỂ 2:
Marie Curie: Người phụ nữ duy nhất giành 2 giải Nobel và thành tích nuôi con khiến bao người nể phục
Cả thế giới nhớ đến Marie Curie như khoa học gia đại tài, người phụ nữ duy nhất giành 2 giải Nobel danh giá. Nhưng ít người biết rằng bà cũng là một người mẹ vĩ đại với vai trò khởi xướng "truyền thống" giành giải Nobel của cả gia đình.
Marie Curie (1867-1934) được biết đến là một trong những khoa học gia vĩ đại nhất mà loài người từng biết đến trong giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu 20. Sự nghiệp của bà chói sáng trong địa hạt vật lý, hóa học và là nhà tiên phong trong các nghiên cứu về phóng xạ.
Thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp khoa học của bà được đánh dấu bằng 2 giải Nobel danh giá ở 2 lĩnh vực khác nhau: Nobel Vật lý năm 1903 cùng chồng; và Nobel Hóa học năm 1911.
Một cuộc đời phi thường
Marie Curie (tên khai sinh là Marya (Manya) Salomee Sklodowska) ra đời ngày 7/11/1867 tại Warsaw, Ba Lan.
Là con út trong gia đình có 5 người con, bà có 3 chị gái và 1 anh trai. Cha mẹ bà - Wladislaw và Bronislava - là những nhà giáo dục tiên phong khi đảm bảo rằng con gái được giáo dục ngang bằng như con trai. Gia đình bà có hoàn cảnh khá khó khăn, cha mẹ bà để lại cho các con chẳng gì ngoài vốn kiến thức và tinh thần học tập.
Mẹ của Curie qua đời vì bệnh lao vào năm 1878. Trong cuốn sách của Barbara Goldsmith "Ám ảnh thiên tài: Thế giới bên trong của Marie Curie", tác giả lưu ý rằng cái chết của mẹ có ảnh hưởng sâu sắc đến bà, thúc đẩy một cuộc chiến kéo dài cả cuộc đời với căn bệnh trầm cảm và định hình quan điểm của bà về tôn giáo. Curie là một nhà vô thần sẽ không bao giờ "tin vào lòng nhân từ của chúa", Goldsmith viết.
Năm 1883, ở tuổi 15, bà hoàn thành chương trình giáo dục trung học, là thủ khoa tốt nghiệp của lớp. Curie và chị gái của bà, Bronya, đều mong muốn theo đuổi con đường học vấn cao hơn, nhưng Đại học Warsaw không chấp nhận phụ nữ.Để có được nền giáo dục như mong muốn, họ phải rời khỏi đất nước. Năm 17 tuổi, Curie trở thành một nữ gia sư để lo tiền cho chị gái mình theo học tại trường y ở Paris. Bà tiếp tục tự học và cuối cùng lên đường đến Paris vào tháng 11 năm 1891.
Khi Curie vào học tại Đại học Sorbonne danh giá ở Paris, bà được đánh giá là một sinh viên tập trung, siêng năng và luôn đứng đầu lớp. Như bằng chứng tài năng của mình, bà đã được trao Học bổng Alexandrovitch dành cho sinh viên Ba Lan du học.
Học bổng đã giúp Curie chi trả cho các lớp học cần thiết để hoàn thành song bằng về vật lý và khoa học toán học vào năm 1894.
Duyên nghiệp với phóng xạ
Curie bị hấp dẫn bởi báo cáo về khám phá ra tia X của nhà vật lý người Đức Wilhelm Röntgen và báo cáo của nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel về "tia Becquerel" do muối uranium phát ra.
Theo Goldsmith, Curie đã phủ một lớp mỏng muối uranium lên một trong 2 tấm kim loại. Sau đó, bà đo cường độ của các tỉa do uranium tạo ra bằng dụng cụ do chồng bà thiết kế. Các thiết bị phát hiện ra các dòng điện mở tạo ra khi không khí giữa hai tấm kim loại bị bắn phá bằng tia uranium. Bà phát hiện ra rằng các hợp chất uranium cũng phát ra những tia tương tự. Ngoài ra, độ mạnh của các tỉa vẫn được giữ nguyên, bất kể các hợp chất ở trạng thái rắn hay lỏng.
Curie tiếp tục thử nghiệm thêm các hợp chất uranium. Bà đã thử nghiệm với một loại quặng giàu uranium có tên là pitchblende và nhận thấy rằng ngay cả khi uranium bị loại bỏ, thì pitchblende cũng phát ra các tia mạnh hơn các tia do uranium nguyên chất phát ra. Bả nghi ngờ rằng điều này cho thấy sự hiện diện của một nguyên tố chưa được khám phá.
Vào tháng 3/1898, Curie đã ghi lại những phát hiện của mình trong một bài báo nhỏ, nơi bà đặt ra thuật ngữ "phóng xạ". Curie đã thực hiện 2 quan sát mang tính cách mạng trong bài bảo này, Goldsmith lưu ý. Bà tuyên bố rằng việc đo độ phóng xạ sẽ cho phép phát hiện ra các nguyên tố mới, và tỉnh phóng xạ chính là một thuộc tính của nguyên tử.
Hai vợ chồng đã làm việc cùng nhau để kiểm tra vô số các quặng pitchblende. Marie Curie thường làm việc đến khuya để khuấy những chiếc vạc lớn bằng một thanh sắt cao gần bằng mình.
Cuối cùng, họ phát hiện ra rằng 2 trong số các thành phần hóa học - một thành phần tương tự như bitmut và thành phần kia giống như bari - là chất phóng xạ. Vào tháng 7/1898, nhà Curie công bố kết luận của họ: hợp chất giống bitmut chứa một nguyên tổ phóng xạ chưa được phát hiện trước đây, mà họ đặt tên là polonium, theo tên quê hương của Marie Curie, Ba Lan.
Cuối năm đó, họ đã phân lập được một nguyên tổ phóng xạ thứ 2, mà họ gọi là radium, có nguồn gốc từ "radius", từ tiếng Latinh có nghĩa là tỉa. Năm 1902, gia đình Curie đã công bố thành công của họ trong việc chiết xuất radium tinh khiết.