Truyện ngắn của Nam Cao ra đời gây một tiếng vang lớn trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Nó là một dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho thắng lợi của quan điểm nghệ thuật vì dân sinh của các văn tiến bộ. Truyện ngắn xuất sắc này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945.
Qua nhiều truyện ngắn của mình, Nam Cao đã tố cáo trước dư luận tình hình thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. Họ là nạn nhân của bọn cường hào áp bức và tham nhũng. Bạo lực đen tối, sưu cao thuế nặng cùng nhiều hủ tục khác ở nông thôn đã đồn đẩy họ vào bước đường cùng, thậm chí tước đoạt quyền sống, quyền làm người của họ. Hình tượng có giá trị tố cáo xa hội sâu sắc là hân vật chí phèo trong tryện ngắn cùng tên – Một nông dan lương thiện bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Chính vì có ý nghĩa hiện thực to lớn và giá trị nghệ thuật sâu sắc nên truyện ngắn này được đánh giá là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã khác họa thật sinh động và tài tình chân dung có một không hai của gã Chí Phèo say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng tất cả làng Vũ Đại cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với nhau với hắn nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn khổ đến nông nỗi này ? Aha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà cứ chửi đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết.
Quả là một nguồn gốc xuất thân đầy bí ẩn. Ấy thế nhưng thân Chí Phèo mọi người đều rõ. Hắn chính là đứa trẻ bỏ rơi lúc lọt lòng, trong chiếc lò gạch bỏ hoang giữ đồng không mông quạnh. Một anh đi thả ống lươn lúc sáng sớm đã mang hắn về làng. Tuổi thơ hắn bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không thân thích, không tác đất cắm dùi hắn lớn lên như thú hoang, như cỏ dại, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kè cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn ngày trước.
Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi đau bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất của hắn ta là không được sống bình thường ngay trong cuộc đời nghèo khổ mà lương thiện của mình. Anh thanh niên có cái tên hiền lành, dễ thương là Chí đã bị xã hội vạn ác cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành gã lưu manh hung tợn Chí Phèo nên đã bị dân làng gạt ra khỏi cộng đồng một cách không thương tiếc Chí vốn là anh trai cày cục mịch, chất phát, làm tá điền cho nhà Lý Kiến. Chỉ vì cơ ghe bóng ghe gió của tên cường hào nham hiểm này mà Chí bị bắt đi tù. Bẩy, tám năm trong tù, sống chung với tầng lớp cặn bã của xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột. Từ mặt mũi đến tính cách của hắn đã trở nên quái dị, đáng sợ.
Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là Bá Kiến- kẻ đã gây ra bi kịch của cuộc đời Chí Phèo – giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh của đồng tiền để mua chuộc, sai khiến, sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây họa cho bao người.
Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều lĩnh. Lúc nào hắn cũng say, cũng giận dữ, sẵn sàng dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ, kêu làng…Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của chí Phèo tố cáo sự hủy hoại nghê gớm của xã hội thối nát đối với phẩm chất nhân cách của người lao động.
Chí Phèo là hiện thân của nỗi đau khổ tột cùng: Sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi đau bất hạnh ấy Chí Phèo dùng rượu để giải khuây: Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn tồn tại trên đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn làm bất kì cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.
Bởi say rượu triền miên nên hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Trong một cơn say, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ngẩn ngơ, nghèo đói quá lứa lỡ thì và dòng giống có mả hủi. Chút tình thương yêu của Thị Nở đã khơi bùng lên ngọn lửa lương tri còn leo lét trong tâm thức âm u của Chí Phèo, thức tỉnh bản chất lương thiện trong hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng là bậc thầy phân tích tâm lí: Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…Chao ôi là buồn!
Những âm thanh quen thuộc ấy vọng đến tai Chí Phèo bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và lay động sâu xa tâm hồn hắn: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu…Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa, cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và “ốm đau”.
Trái tim tưởng như chai đá của Chí Phèo dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được sống cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại. Chí Phèo háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.
Nhưng chút tình yêu thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đương trở lại làm người của hắn đã bị một trở lực ghê gớm ngăn cản. Định kiến xã hội biểu hiện qua sự cấm đoán gay gắt của bà cô Thị Nở không cho phép Chí Phèo đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Một lần nữa Chí Phèo bị ruồng rẫy, hắt hủi phũ phàng. Từ đỉnh cao hi vọng, hắn rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Hắn ôm mặt khóc rưng rức vì cảm nhận sâu sắc số phận bất hạnh và bi kịch không lối thoát của mình rồi lại tìm đến rượu.
Đau đớn thay tiếng kêu tuyệt vọng của Chí Phèo khi vác dao đến nhà Bá Kiến để hỏi tội hắn: Tao muốn làm người lương thiện! Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách…biết không! Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết chết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt thân mình để giải quyết bi kịch của số phận. Hành động quyết liệt ấy cho thấy một một khi phần người đã sống dậy thì Chí Phéo không chấp nhận trở lại kiếp thú hoang.
Nỗi thống khổ của Chí Phèo đã bị tước đoạt quyền làm người, không được nếm trải đủ những buồn vui, sướng khổ của kiếp người. Chí Phèo chết trong nỗi đau đớn tột cùng bởi khao khát mãnh liệt được làm người lương thiện đã bị định kiến xã hội dập tắt một cách tàn nhẫn. Câu hỏi cuối cùng trong những giây phút tỉnh táo cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo chất chứa khao khát, đớn đau, phẫn uất và tuyệt vọng. Nó có giá trị tố cáo rất lớn cái xã hội thực thực dân phong kiến vô nhân đạo và có sức thức tỉnh, nay động mạnh mẽ, làm cho tâm hồn người đọc day dứt khôn nguôi. Đó chính là giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm.
Qua hình tượng nhân vật bất hủ của Chí Phèo, Nam Cao muốn đề cập tới, một vấn đề quan trọng là: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong xã hội phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật độc đáo đã khẳng định Nam Cao là cây bút bậc thầy về truyện ngắn và tôn vinh tác giả lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
[hoctot.me - Trợ lý học tập AI]