Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về chuyến tham quan: đền Hùng
- Bày tỏ cảm xúc của em khi được trực tiếp tham gia chuyến đi: vui vẻ, hào hứng và mong chờ,...
2. Thân bài
- Kể lại cụ thể diễn biến của chuyến tham quan đền Hùng:
+ Trên đường đi: thời gian xuất phát, phương tiện di chuyển, thời gian đến nơi,...
+ Lúc đến điểm tham quan
+ Trình tự các điểm đến thăm
+ Những hoạt động chính trong chuyến đi
- Thuyết minh, miêu tả và nêu ấn tượng của em về những nét nổi bật của di tích lịch sử, văn hóa đó (thiên nhiên, con người, công trình kiến trúc…)
3. Kết bài: Nêu cảm xúc, suy nghĩ của em về chuyến tham quan: đền Hùng.
Mẫu 1
Hè vừa qua trường chúng em có tổ chức đi thăm di tích đền Hùng với mục đích giúp các em học sinh hiểu hơn về lịch sử nước nhà. Chuyến đi rất bổ ích và giúp em cùng các bạn biết thêm nhiều kiến thức mới.
Đền Hùng khu di tích thờ phụng Vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch nơi này tổ chức lễ hội Đền Hùng rất lớn. Bắt đầu từ chân núi đi lên chúng em bắt gặp đền Hạ, tương truyền kể rằng đây là nơi Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Tiếp tục di chuyển lên sẽ là đền Trung, vị trí quan trọng nơi tổ chức họp bàn việc nước của vua và quan. Cao nhất là đền Thượng, vị trí tối cao dùng để thờ cúng các vị thần theo tín ngưỡng xưa. Kế bên đó là đền Giếng, ngôi đền xây dựng trong thế ký 18, theo dân gian tương truyền đây là nơi công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa soi gương. Trước mỗi cảnh vật bên trong chúng em đều bước đi chậm rãi, bồi hồi trước khung cảnh cổ kính, thiêng liêng.
Điều đặc biệt mà em chú ý nhất là được tham quan bảo tàng Hùng Vương, nơi lưu giữ và trưng bày hiện vật, hình ảnh,tư liệu về Vua Hùng. Các anh chị hướng dẫn viên giới thiệu các câu chuyện, hiện vật và hình ảnh của nhiều dân tộc thời vua Hùng cũng như những câu chuyện bổ ích về lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông. Ấn tượng nhất với chúng em là hình ảnh Bác Hồ trò chuyện với chiến sĩ thuộc "Đại đoàn Quân tiên phong", và căn dặn ân cần các chiến sĩ câu nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Trong thời gian tham quan chúng em còn được biết đến phần lễ quan trọng trong hội Đền Hùng đó là lễ rước kiệu vua gồm có nhiều cờ, hoa, trang phục truyền thống. Lễ dâng hương đền Hùng, trước tiên là lãnh đạo nhà nước và sau đó là những người dân thắp nén hương cho các vua Hùng. Tham gia các trò chơi truyền thống như thi vật, thi kéo co, thi bơi...
Một chuyến đi chỉ vỏn vẹn một buổi nhưng đã để lại nhiều bài học sâu sắc, giúp chúng em hiểu thêm về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đền Hùng là nơi thiêng liêng mà mỗi người dân Việt Nam đều nhớ đến, đó là cội nguồn của mỗi chúng ta.
Mẫu 2
Vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương, tôi đã có dịp đến thăm đền Hùng- một di tích lịch sử quan trọng của nằm ở tỉnh Phú Thọ.
Từ sáng sớm, tôi đã thức dậy để chuẩn bị. Khoảng năm giờ, tôi cùng bố mẹ bắt xe để đi đến đến Hùng. Xe đi khoảng gần hai tiếng thì đến nơi. Nơi đây vô cùng đông đúc, rất nhiều người về đền Hùng để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng. Tôi cùng bố mẹ đến từng địa điểm để dâng hương.
Khu di tích lịch sử đền Hùng gồm có đền Hạ, chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng, lăng Vua Hùng, đền Giếng, đền Tổ Mẫu Âu Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân và cùng với đó là các công trình phụ trợ nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh của đồng bào cả nước về Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm.
Đầu tiên, tôi được đến thăm đền Hạ - theo tìm hiểu đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị bao gồm Tiền bái và Hậu cung. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi. Tương truyền rằng đây là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng.
Tiếp đến là chùa Thiên Quang, chùa xưa có tên gọi là “Viễn Sơn Cổ Tự” sau đổi thành “Thiên Quang Thiền Tự”. Ngôi chùa được xây dựng vào thời Trần đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời Nguyễn chùa được đại trùng tu. Rồi đến đền Trung hay còn có tên gọi khác là Hùng Vương Tổ miếu được xây dựng vào thời Lý - Trần. Đến thế kỷ XV, đền bị giặc Minh tàn phá, sau này được xây dựng lại, kiến trúc hiện nay kiểu chữ nhất gồm ba gian, kiến trúc đơn sơ không có cột, kèo cầu quá giáng cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói mũi. Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và họp bàn việc nước. Nơi đây cũng là nơi vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh dày.
Sau đó, chúng tôi lần lượt đến dâng hương tại đền Thượng, đền Giếng, đền Tổ Mẫu Âu Cơ, đền Quốc Tổ Lạc Long Quân. Ở mỗi địa điểm, tôi lại được bố mẹ kể cho nghe nhiều câu chuyện hấp dẫn.
Sau chuyến đi, tôi cảm thấy thêm biết ơn các vua Hùng và càng thêm tự hào về nguồn gốc của dân tộc.
Mẫu 3
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Bài ca dao đã nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam về lòng biết ơn với các vua Hùng. Vừa qua, tôi đã được đến thăm đền Hùng cùng bố mẹ.
Sáu giờ sáng, bố đã đánh thức tôi dậy. Mọi người cùng ăn sáng, sau đó chờ xe đến đón. Chuyến đi khởi hành vào lúc bảy giờ. Xe đi khoảng gần hai tiếng thì đến nơi. Tôi theo bố mẹ đi thăm quan đền Hùng. Đền Hùng là Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì,tỉnh Phú Thọ.
Từ cổng chính đi lên là Đền Hạ, theo truyền thuyết đây là nơi bà Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con tạo thành sức mạnh dân tộc Việt Nam. Lên nữa là Đền Trung nơi các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và trên đỉnh núi là Đền Thượng với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” (Tổ muôn đời nước Việt Nam). Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và làm lễ tế trời đất cầu mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt, muôn dân ấm no. Cạnh Đền Thượng là ngôi Lăng nhỏ thường gọi là mộ Tổ mang ý nghĩa tượng trưng. Từ Lăng đi xuống về hướng Đông, dưới chân núi là Đền Gióng nơi xưa hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con Vua Hùng thứ 18 soi gương nước trang điểm, vì thế giếng còn có tên là Giếng Ngọc. Giếng ấy nay ở trong lòng đền.
Qua mỗi điểm, tôi và bố mẹ lại dừng chân để thắp hương, với mong muốn bày tỏ lòng thành kính. Cũng có rất nhiều người cũng giống như chúng tôi vậy. Có thể thấy rằng, khu di tích lịch sử Đền Hùng đã để lại những giá trị về văn hóa, kiến trúc, tâm linh. Nơi đây cũng gợi nhắc con người hướng tới truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý giá của dân tộc Việt Nam. Tôi càng cảm thấy tự hào về đất nước của mình nhiều hơn.
Chuyến tham quan di tích lịch sử, văn hóa đền Hùng đã giúp tôi có thêm trải nghiệm quý giá. Tôi cũng thêm trân trọng và biết ơn các vua Hùng và ý thức được trách nhiệm giữ gìn truyền thống biết ơn của dân tộc.
Mẫu 1
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Lễ hội đền Hùng từ lâu đã trở thành một lễ hội thiêng liêng lớn nhất của dân tộc Việt Nam, đó là dịp người dân ở khắp các nơi cùng đổ về làm lễ cúng bái để tỏ lòng biết ơn với các vua Hùng. Năm nay, lần đầu tiên em được cùng gia đình đi tham quan khu di tích lịch sử cấp quốc gia– đền Hùng.
Đền Hùng nằm ở đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây được núi rừng bao bọc nên khung cảnh trở nên rất kín đáo, linh thiêng, xứng đáng là nơi yên bình tao lạc của các vị vua Hùng. Ngày lễ giỗ tổ Hùng Vương là ngày mùng mười tháng ba âm lịch, nhưng mọi người từ khắp các nơi đã đổ về đây từ ngày mùng một và kéo dài đến hết ngày mùng mười. Gửi xe xong, khách du lịch phải đi bộ một quãng khá dài để vào trung tâm của lễ hội. Xung quanh là các quán bán hàng đồ lưu niệm như quần áo, sách vở, vòng tay bằng đá,..đều khắc những chữ viết riêng của khu lễ hội.
Đền Hùng có ba khu di tích chính là đền Hạ, đền Trung và đền Thượng được sắp xếp từ dưới lên trên theo đường đi của du khách. Con đường lên các đền thờ giống như được làm theo đường đi lên núi, mọi thứ đều được bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ có khi đã hàng trăm tuổi, cành lá xum xuê. Đặc biệt trên mỗi thân cây đều có treo một tấm biển ghi tên và lịch sử ra đời của nó. Đi được vài chục mét sẽ có một tấm biển ghi câu tục ngữ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là câu : “ Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “ Chim có tổ người có tông”. Đến đền Hùng mới thấy được nét đẹp văn hóa của người Việt. Mọi người luôn có ý thức trên đường đi, không vứt rác bừa bãi, không xô đẩy ở nơi thiêng liêng, ai cũng có tâm nguyện bái cúng tổ tiên vừa để tỏ lòng biết ơn, vừa để cầu may mắn, sức khỏe cho người thân. Các bậc đá dẫn lối đi đến các đền thờ được xây giống như những cầu thang nối tiếp nhau trả dài, khi đi lên khá vất vả, vì vậy dọc đường có nhiều ghế đã làm bằng gỗ cây cho du khách ngồi nghỉ.
Đền thờ đầu tiên là đền Hạ, đền hạ có kiến trúc khá đơn sơ và dường như được xây dựng từ khá lâu. Tương truyền đây là nơi mẹ Âu cơ sinh ra bọc trứng một trăm người con từ đó khai sinh ra đồng bào ta. Trước khi vào làm lễ, mọi người thường viết những tờ sớ màu vàng rồi thả vào bình nhang to để đốt. Sau khi làm lễ xong, nhiều người sẽ nghỉ ngơi ở những chiếc ghế đá xung quanh để lấy sức tiếp tục leo lên đền Trung. Từ đền Hạ đến đền Trung quãng đường ngắn hơn so với từ nơi bắt đầu đi đến đền Hạ. Tương truyền đây là nơi vua Hùng cùng các vị tướng thường họp bàn việc nước. Sau khi làm lễ ở đền Trung, mọi người lại tiếp tục leo lên đền Thượng, dù bên ngoài trời nắng nóng nhưng cây cối ở đây rậm rạp tỏa bóng mát khiến cho không khí trở nên dễ chịu hơn. Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, đây là nơi có đền thờ của vua Hùng đời thứ sáu. Bố em kể ngày xưa đền Thượng từng bị quân giặc tàn phá nhưng sau đó nhân dân đã góp công góp sức để khôi phục lại.
Sau khi làm lễ ở đền Thượng, mọi người không phải quay trở lại con đường đã đi để xuống chân núi mà tiếp tục đi vòng xuống đền Giếng. Nếu khi leo lên mọi người có khá vất vả thì đường đi xuống lại thoải mái hơn nhiều. Mọi người có thể vừa đi vừa ngắm khung cảnh xung quanh . Đền Giếng có hình tròn giống y như một chiếc Giếng cùng với mái che cổ kính, nước của Giếng khá trong. Tương truyền ngày xưa mẹ Âu Cơ thường tắm cho các con ở giếng này. Vào ngày lễ chính của giỗ tổ Hùng Vương nên có rất nhiều hoạt động diễn ra, có cả chương trình cắt bánh chưng cho người dân đi làm lễ ở đền hay chương trình trình diễn múa hát con rồng cháu tiên. Đây là những hoạt động thường niên để dâng hương bái tế các vua Hùng. Những người dâng hương bái tế vua Hùng thuộc đông đảo các tầng lớp nhân dân, từ trẻ nhỏ đến người già. Thế mới biết người dân Việt Nam từ khi sinh ra đã được dạy dỗ về nguồn cội của mình. Trong lễ hội vua Hùng còn có sự xuất hiện của các du khách nước ngoài. Họ đến đây không chỉ để tham quan mà còn để tìm hiểu về một nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của người Việt. Đền Hùng còn có nhiều khu di tích nữa như : Cột đá thề, đền thờ Lạc Long Quân,.. để du khách sau khi làm lễ ở các đền thờ chính có thể đến đây tham quan và tìm hiểu lịch sử dân tộc.
Trên đường đi xuống chân núi là nhiều tốp người đang ngồi nghỉ ở các tảng đá hoặc chụp ảnh kỉ niệm ở các dòng suối mát. Nước suối ở đền Hùng mát lạnh và rất trong, có thể nhìn thấy cả đá ở dưới. Ở đây còn có nhiều nơi mở cửa cho du khách vui chơi và tắm suối. Lễ giỗ tổ Hùng Vương diễn ra hàng năm đã trở thành lễ hội thiêng liêng không thể thiếu của văn hóa dân tộc.
Mẫu 2
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Câu ca dao giản dị, đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng những người dân Việt Nam mỗi dịp tháng 3 về. Khi ấy, hàng ngàn người con đất Việt ở khắp mọi miền của Tổ Quốc lại hành hương về đất tổ, nơi cội nguồn của dân tộc. Với tôi cũng vậy, tôi mong được một ngày về thăm đất tổ Hùng Vương, nơi luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm, nơi hội tụ của những người con đất Việt.
Và điều tôi mong ước đã đến. Tôi được tham gia cùng đoàn các thầy giáo, cô giáo, các bác phụ huynh và các bạn học sinh khối 7 trong chuyến đi trải nghiệm “Về với cội nguồn”. Tôi vẫn còn nhớ trong cái đêm đầu tiên trước ngày đi, tôi vừa vui sướng lại vừa hồi hộp và có một chút lo sợ. Tôi vui sướng bởi lẽ mai đã là ngày lên đường, cái ngày mà mỗi học sinh lớp 7 chúng tôi mong đợi từ lâu, nhưng tôi lại lo sợ vì đây là lần đầu tiên tôi rời xa bố mẹ, xa vòng tay ấm áp và sự quan tâm mà bố mẹ dành cho tôi. Thế nhưng, ngay lúc đó, mẹ lại đến bên tôi, động viên tôi và nói đây chính là bài học đầu tiên của con về sự tự lập. Ở một môi trường tập thể, tôi sẽ phải tự lực để hòa nhập được với nó mà không có sự trợ giúp của mẹ. Đây sẽ là bài học mà tôi không bao giờ quên trong cuộc đời.
Thế rồi, ngày hôm sau, trên chiếc xe bus có gắn biển: “Lớp 7D”, chúng tôi khởi hành “Về với cội nguồn”. Xe chúng tôi lướt nhanh trên con đường cao tốc rộng dài, bỏ lại sau lưng thành phố thân yêu để về với miền đất thiêng liêng của Tổ quốc. Chỉ hơn hai tiếng đồng hồ, chúng tôi đã đứng trên miền đất tổ, miền đất đã trải qua bao mùa lịch sử anh hùng, từ thuở sơ khai đến buổi hoàng hôn nước nhà. Chúng tôi hồ hởi leo lên núi. Trong cái nắng dịu của những ngày đầu xuân, những con gió nhẹ khẽ thổi qua người tôi để thấy cái không khí giá lạnh của mùa đông vẫn còn. Tôi cảm thấy mình thật may mắn và vinh dự khi được cùng đoàn trường THCS Lê Quý Đôn tới thăm nơi đây, nơi những vị anh hùng dân tộc với những truyền thuyết vẫn còn đến ngày nay. Tôi khẽ nhìn xung quanh, xa xa trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao ngất trời, từng ngôi đền dần hiện ra trước mắt chúng tôi. Ngay đầu tiên là khu Đền Hạ với kiến trúc xưa cũ mang hình chữ Nhị, được xây dựng từ thế kỉ XVII. Tương truyền rằng, khi xưa kia, Đức mẹ Âu Cơ đã hạ sinh ra một bọc trăm trứng, trăm trứng nở thành trăm người con, là nguồn gốc của người Lạc Việt, mà con người thường thân mật gọi nhau là đồng bào. Chao ôi! Hai tiếng thốt lên thật thiêng liêng và cao cả, nó tượng trung cho sự đoàn kết, sự yêu thương gắn bó giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Đi thêm 168 bậc nữa, chúng tôi tới đền Trung cổ kính, nơi đây mang đậm vể đẹp tự nhiên của thuở sơ khai. Tương truyền rằng, các thời đại vua Hùng đã chọn nơi này để họp bàn việc nước và tham quan, ngắm cảnh. Đồng thời đây cũng chính là nơi mà Lang Liêu – vị vua Hùng thứ 18 đã dâng lên vua hai thứ bánh Chưng – bánh Giầy tượng trưng cho trời – đất trong ngày lễ tiên đế. Nhưng có lẽ đặc biệt nhất vẫn là Đền Thượng. Nơi đây không còn mang vẻ dịu dàng như đền Hạ mà lại mang vẻ uy quyền của một vị quân vương. Chính tại nơi này, lăng mộ của vị vua Hùng thứ 6 đã được xây dựng và lưu giữ lại cho đến ngày nay. Ngoài ra nơi đây cũng còn có cột đá thề, được vua Thục Phán xây dựng để khẳng định lời thề với trời đất sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt .
Sau khi tham quan Đền Hùng, mỗi chúng tôi ít nhiều đều cảm thấy tự hào vì dòng máu Lạc Hồng đang chảy trong trái tim mình và cũng tự hào vì là con dân Đất Việt, con cháu Rồng Tiên. Còn riêng tôi, tôi lại thấy hãnh diện không chỉ như vậy mà giờ đây tôi còn có thể khẳng định với bạn bè năm châu: ”Đất nước tôi, đất nước của những trang lịch sử hào hùng, đất nước của vua Hùng Đại Việt sẽ tồn tại và bền vững mãi.”
Qua chuyến đi này, tôi đã có dịp được học hỏi rất nhiều, được hòa mình vào thế giới của lịch sử và niềm vui, được thể hiện tài năng và đơn giản là được gần bạn bè hơn. Tôi thầm hứa sẽ cố gắng học tập tập thật tốt để xứng đáng là con cháu rồng tiên, con dân Đại Việt.
Mẫu 3
Lễ hội đền Hùng là một lễ hội quan trọng bậc nhất của dân tộc ta. Nhân dịp lễ hội đang được diễn ra bố có cho tôi được đến thăm đền Hùng vào đúng mùa lễ hội nên các hoạt động diễn ra tại đây rất đông đúc. Chuyến tham quan đã để lại trong tôi rất nhiều những ấn tượng khó quên
Nói về lễ hội đề Hùng thì ca dao dân ca có câu:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Đền Hùng là tên gọi khái quát quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Được đến thăm đền Hùng mới có thể thấm nhuần được những đạo lí tôt đẹp của nhân dân ta đã được gây dựng từ bao đời. Đến đây ta có thể được tham quan ba khu chính của đền Hùng đó là đền Hạ đền Trung và đền Thượng theo thứ tự từ dưới chân núi đi lên. Đầu tiên ta sẽ được quan sát đền Hạ. Tương truyền đây là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng. Đền được xây dựng với kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai tòa tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Tiếp theo ta sẽ đến tham quan khu di tích tiếp theo mang tên đền Trung. Tương truyền đây là nơi vua Hùng cùng các lạc thần lạc tương thăm thú tiên cảnh và cùng nhau bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ sáu đã truyền ngôi cho Lang Liêu người đã có công làm ra chiếc bánh chưng và bánh giầy
Sau đó chúng ta sẽ được tham quan đền thượng và cùng với đó là lăng Hùng Vương đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Cương. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay rập rờn như đang múa quạt xòe hoa trước sân. Lăng của các vua Hùng ẩn trong rừng cây xanh gần đền Thượng. Đứng ở đây, nhìn ra xa, phong cảnh thật là đẹp. Bên phải là đỉnh Ba Vì vòi vọi, bên trái là dãy Tam Đảo như bức tường đá sừng sững.
Sau đó chúng ta có thể đi thăm đền Giếng. Tương truyền đây là nơi trong truyện công chúa Tiên Dung thường soi gương vấn tóc khi cùng cha đi thị vấn nơi đây. Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung sơn tiểu thất” (ngôi miếu nhỏ trong núi). Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sĩ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một bên.
cuối cùng chúng ta có thể đến thăm đền tổ mẫu Âu Cơ được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được xây dựng trên núi ốc Sơn (núi Vặn) theo kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dùi bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh. Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên.
Một ngày tham quan ở đền Hùng để lại trong tôi rất nhiều những ấn tượng khó quên. Có đến đây có được tham quan những cảnh đẹp nơi đây mới khiến ta cảm nhận được hết những công lao to lớn của vua Hùng cùng cha ông ta để ta có cuộc sống như ngày hôm nay. Tôi tự nhủ với mình phải cố gắng học tập thật tốt để xứng đáng với công lao của các vị vua Hùng.