Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Giới thiệu về bản thân - Lê Lợi, chủ tưởng của nghĩa quân Lam Sơn.
2. Thân bài
- Hoàn cảnh đất nước: giặc Minh xâm lược, coi nhân dân như cỏ rác, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Lợi đứng lên bảo vệ đất nước.
- Long Quân cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm thần nhưng bằng cách trải qua thử thách để tìm được thanh gươm quý.
- Lê Thận là người dân bình thường, làm nghề đánh cá: Trong một lần thả lưới, vớt được một thanh sắt liền vứt xuống nước, liên tiếp vớt được tới lần thứ ba thì lấy làm lạ. Chàng bèn đưa thanh sắt lại cạnh mồi lửa nhìn xem thì phát hiện ra đó là một lưỡi gươm.
- Lê Lợi là chủ tướng lãnh đạo nghĩa quân: Một lần bị giặc truy đuổi, lúc rút lui đi qua một khu rừng. Lê Lợi thấy ánh sáng lạ trên ngọn đa. Ông trèo lên mới biết đó là chuôi gươm nạm ngọc. Lúc này mới nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận và hiểu ra đó là một vật báu.
- Lê Lợi có thanh gươm trong tay tung hoành khắp các trần địa, làm cho quân Minh kinh hồn bạt vía.
- Gươm thần giúp nghĩa quân đánh bại quân xâm lược, cho đến khi không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước.
- Đất nước đã đánh tan giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua cai trị đất nước, nhân dân sống trong thái bình. Rùa Vàng hiện lên đòi lại thanh gươm quý.
3. Kết bài
Đất nước đã đánh tan giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua cai trị đất nước, nhân dân sống trong thái bình. Rùa Vàng hiện lên đòi lại thanh gươm quý.
Mẫu 1
Ta là Lê Lợi, chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn. Trước tình hình đất nước rối ren trăm bề, giặc Minh hoành hành gây ra bao đau khổ cho nhân dân. Ta đứng lên phát động mọi người yêu nước, có cùng lí tưởng, khát khao đấu tranh chống quân Minh, giành độc lập cho dân tộc, mang lại cho người dân cuộc sống yên bình, ấm no.
Nghĩa quân của ta thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động nghèo ở nhiều địa phương quy tụ về. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch lớn về tương quan lực lượng, vũ khí đấu tranh so với quân xâm lược Minh. Cảm động trước tấm lòng nhân nghĩa của nghĩa quân, đồng thời cũng nhận biết được tình cảnh khó khăn mà nghĩa quân đang phải đối mặt, đức Long Vương đã cho ta mượn Gươm báu, và thanh gươm này đã trở thành một trợ thủ đắc lực đưa đến chiến thắng lẫy lừng sau này.
Không thể đứng nhìn đất nước của mình rơi vào tay quân giặc, không chấp nhận cuộc sống của kiếp nô lệ nên ta đã đứng lên phát động bà con cùng đấu tranh chống giặc. Ngay sau những hoạt động tuyên truyền, phát động, lực lượng người theo ta ngày càng đông đảo.
Trong thời gian đầu, nghĩa quân đã gặp phải muôn vàn khó khăn, thách thức, liên tiếp bị quân Minh tập kích, truy sát làm cho nhiều anh em đồng đội đã ngã xuống. Ta và mọi người tuy rất đau lòng nhưng không thể dừng lại hành động đấu tranh chính nghĩa này được. Hôm ấy trong một cuộc sát phạt dã man của quân giặc, ta và một vài người anh em đã chạy vào ẩn nấp trong một ngôi nhà nhỏ trong rừng. Sau khi đã an toàn, ta tìm gặp và cảm tạ chủ nhân của căn nhà, người đó tên là Lê Thận.
Khi đang nói chuyện, ta bỗng thấy có những tia sáng kì lạ thu hút ánh nhìn của mình, nhìn qua thì đó thì ra là một lưỡi gươm sáng loáng. Những thanh gươm tốt ta đã gặp rất nhiều nhưng thanh gươm sắc bén đến mức phát ra thứ ánh sáng kì lạ này thì là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy, đặc biệt hơn nữa, trên thân của lưỡi gươm này có khắc dòng chữ Thuận Thiên. Thấy ta tò mò về lưỡi gươm, Lê Thận đã không hề giấu mà mang câu chuyện kéo được lưỡi gươm báu cho ta nghe.
Một lần nọ, trước sự tấn công của quân Minh, ta đã một mình chạy vào rừng. Khi thấy trên ngọn cây cao phát ra thứ ánh sáng lạ kì, ta đến gần thì phát hiện đó chính là một chuôi gươm. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ta đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in.
Sau đó khi đất nước đã được thái bình, đất nước không còn một bóng giặc, ta lên làm vua. Trong một lần cùng chúng quan bơi thuyền dạo chơi trên hồ Tả Vọng thì bỗng hiện lên một con Rùa Vàng to lớn, đặc biệt là nó không sợ người, bơi sát vào phía mạn thuyền thì cất tiếng đòi gươm. Lúc bấy giờ ta mới biết đây là thanh gươm báu của đức Long Vương cho ta mượn để hoàn thành nghiệp lớn, nay sự nghiệp hoàn thành, nên đòi lại gươm. Ta đã cung kính dâng thanh gươm cho Rùa Vàng, sau đó thì Rùa Vàng biến mất không còn dấu vết.
Mẫu 2
Tôi là Lê Lợi, là chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn. Tôi luôn đau đáu với những nỗi đau thương, mất mát, sự hi sinh mà nhân dân phải chịu khi giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chứng kiến tình cảnh ấy, tôi không khỏi đau đớn.
Tôi tập hợp những người hùng, quân nhân giỏi về cả trí và lực để phụng sự sự nghiệp kháng chiến. Rất nhiều tráng sĩ từ khắp mọi nơi đã sẵn sàng đến gia nhập vào nghĩa quân và mong muốn được hết mình vì sự nghiệp của dân tộc. Trong những ngày đầu kháng chiến, nghĩa quân luôn thất bại liên tiếp vì lực lượng còn mỏng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu và cũng vì quân nhân ta có sự chênh lệch lớn về lực lượng, trang bị, vũ khí với quân địch.
Tôi lo lắng trước tình hình an nguy của đất nước và vẫn luôn suy nghĩ để tìm ra phương pháp tiêu diệt kẻ thù một cách nhanh chóng, bớt tiêu hao nhân lực nhiều nhất. Một ngày, có một tráng sĩ đến doanh trại nghĩa quân, tự nguyện đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn. Đó là Lê Thận, một người tráng sĩ khỏe mạnh và có tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến đáng tự hào. Một lần, Lê Thận nói với tôi câu chuyện về thanh gươm kì lạ mà anh ba lần kéo lưới được trong một lần đánh cá. Anh nghĩ đó chắc hẳn là một vật báu trời ban. Tôi tò mò về thanh gươm nên đã nói Lê Thận cho chiêm ngưỡng thanh gươm ấy.
Khi về đến nơi Lê Thận ở trước đây, tôi nâng thanh gươm lên, thanh gươm bỗng sáng rực và lộ rõ hai chữ "Thuận Thiên" trên thân gươm. Biết được đây là gươm quý, vật trời ban, tôi và Lê Thận cùng đồng lòng mang thanh gươm về để ra quân chiến đấu. Một lần, khi đi ngang qua khu rừng, tôi phát hiện trên cây có một chuôi gươm. Nghĩ tới thanh gươm ở nhà, tôi lấy xuống và kì lạ thay, khi tra vào gươm vào chuôi thì vừa y như đúc. Tôi dùng thanh gươm này để tiêu diệt kẻ thù, đánh đến đâu, giặc giã đến đấy. Chẳng bao lâu, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt được hết giặc Minh, đánh đuổi chúng về nước.
Khi đất nước thanh bình, tôi được nhân dân suy tôn lên làm vua. Trong một lần dạo chơi hồ ở hồ Tả Vọng, bỗng hiện lên một con Rùa Vàng lớn. Con rùa ấy nhô lên khỏi mặt nước và cất tiếng nói: "Xin bệ hạ trả gươm cho Long Quân". Thấy vậy, thanh gươm được giắt bên người tôi bỗng rung lên. Tôi tháo gươm ra dâng cao lên, rùa ngay lập tức há miệng đớp lấy thanh gươm rồi lặn xuống nước. Tôi biết đó là công ơn của Đức Long Quân đã cho mượn gươm để tôi đánh đuổi giặc thù. Từ đó, tôi cho đổi tên hồ Tả Vọng thành Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm, tức hồ trả gươm.
Mẫu 1
Vào thời giặc Minh đô hộ ở nước ta chúng coi nhân dân như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân của ta nổi dậy chống lại chúng, thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị thua. Thấy vậy Long Quân quyết định cho nghĩa quân của ta mượn gươm thần để giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hoá có một người làm nghề chài lưới quanh năm để nuôi thân, tên là Lê Thận. Một đêm nọ, anh ta thả lưới ở một bến vắng như mọi hôm. Khi kéo lên, Thận nghĩ là được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá, Thận chỉ thấy một thanh sắt. Thận liền vứt ngay xuống nước, rồi lại thả lưới ở một chỗ khác.
Lần thứ hai cất lưới lên, Thận lại thấy thanh sắt đó mắc vào lưới. Lần thứ ba, vẫn. thanh sắt đó mắc vào lưới. Thấy sự lạ, Thận bèn đưa thanh sắt lại gần mồi lửa. Bỗng chàng reo lên:
– Ha ha! Một lưỡi gươm!
Sau này, Thận gia nhập nghĩa quân khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Thận thông minh gan dạ, dũng cảm, không nề gian nan, nguy hiểm nên ta rất quý mến. Một ngày nọ, ta và mấy người lính đến nhà Thận. Trong túp lều rách nát, tối om, bỗng thanh sắt sáng rực lên ở góc lều. Lấy làm lạ, ta cầm lên xem thấy hai chữ “Thuận thiên” khắc sâu trên mặt kiếm. Song tất cả bọn ta vẫn không biết đó là báu vật.
Một hôm, bị giặc đuổi, ta và các tướng rút lui mỗi người một ngả. Đến một gốc đa cổ thụ, thấy vật gì sáng lóe trên cây ta bèn trèo lên xem, thì ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ta bèn rút lấy chuôi dắt ở lưng và trở về.
Vài hôm sau, ta gặp mọi người trong nghĩa quân và kể lại cho họ nghe câu chuyện bắt được chuôi gươm. Lúc đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in. Lê Thận cầm gươm lên và nói với ta:
– Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện hy sinh tính mạng cho đất nước và cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!
Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng tăng. Trong tay ta, thanh gươm tung hoành mọi trận địa, làm cho giặc kinh hồn bạt vía. Uy thế của nghĩa quân vang khắp nơi. Nghĩa quân không phải trốn tránh như trước nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Chúng ta không phải ăn uống khổ cực nữa mà đã có những kho lương mới chiếm được tiếp tế cho nghĩa quân. Gươm thần mở đường cho chúng ta đánh tràn ra khắp đất nước đến khi không còn bóng giặc nào trên đất nước ta nữa. Dẹp giặc xong, ta được phong lên ngôi vua. Năm sau, vào một buổi sáng đẹp trời ta cùng các tuỳ tùng cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng. Đúng lúc đó Đức Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi thuyền Rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh của ta, thuyền đi chậm lại. Đứng trên mạn thuyền, ta thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy. Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên và tiến về phía thuyền. Nó đứng nổi trên nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”.
Ta nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm xuống đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới đáy hồ xanh.
Từ đó ta gọi hồ Tả Vọng là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Nhân dân cũng nhân sự tích này mà gọi hồ Tả Vọng bằng cái tên mới là hồ Hoàn Kiếm.
Mẫu 2
Tôi là Lê Lợi, tướng quân Lam Sơn. Khi giặc Minh xâm lược nước ta. Họ bóc lột con người đến tận xương tủy của họ. Điều đó khiến tôi vô cùng đau buồn.
Chúng tôi quyết định thành lập đội quân mang tên Lam Sơn để rèn luyện sức mạnh chờ ngày ra trận. Vì nghĩa quân mới thành lập chưa lâu nên lực lượng còn yếu, gặp nhiều khó khăn: thiếu lương thực, vũ khí...
Khi đó, ở Thanh Hóa có người tên Lê Thần làm nghề chài lưới. Lê Thần trong lúc kéo lưới đã tìm ra ý tưởng về con cá mình cần. Hóa ra khi phóng lên chúng tôi chỉ tìm thấy một thanh sắt, sát bờ sông. Ba lần liên tiếp, Lê Thần chắc chắn thấy có gì đó lạ nên quyết định đem nhà. Về sau, Lê Thần gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và chiến đấu vô cùng dũng cảm. Sau này, khi nghe Lê Thần kể chuyện này, tôi mới hiểu rõ đó là ý trời.
Có một lần chúng tôi tình cờ đến thăm nhà Lê Thần. Cảm giác tự nhiên thấy một góc nhà nhẹ nhàng, tôi lại gần nhặt lên xem là gì thì thấy dòng chữ "Thuận Thiện". Một lần nọ, khi kẻ thù tấn công tôi, tôi và đoàn tùy tùng đi xuyên qua một khu rừng và lấy được một chiếc cán nhỏ. Nếu chúng ta thử trèo lên cây, chúng ta sẽ thấy một chuôi kiếm được nạm ngọc quý. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ta mang chuôi về tra vào lưỡi gươm thì vừa như in.
Một năm đã trôi qua, nhờ sự giúp đỡ của thần đồng, quân ta dù chiến đấu ở đâu cũng chiến thắng. Uy danh ngày vàng còn xa. Quân Minh đã quét sạch. Tôi được nhân dân tôn làm vua hiệu Lê Thái Tổ
Một hôm, tôi chèo thuyền trên hồ Tả Vọng và nhìn thấy một con Rùa Vàng đang nổi lên. Rùa không sợ người nhưng lại nói với chúng tôi:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân..
Rùa Vàng nói xong, tôi bèn đem gươm báu trả lại rồi nói:
- Cảm ơn ngài và chúa Long Quân đã cho chúng tôi vay tiền quý để đánh giặc và bảo vệ đất nước.
Nghe xong, Rùa Vàng hoàng hôn và lặn xuống hồ. Từ đó người ta đổi tên hồ Tả Vọng thành Hồ Gươm (còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).