-
-
-
- Lớp 2
- Tự nhiên và xã hội
- Tiếng việt
- Toán học
- Tiếng Anh
- Đạo đức
- Âm nhạc
- Mỹ thuật
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- Lớp 4
- Khoa học
- Tiếng việt
- Toán học
- Đạo đức
- Tiếng Anh
- Lịch sử và Địa lí
- Công nghệ
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- GD Thể chất
- Âm nhạc
- Lớp 5
- Khoa học
- Toán học
- Tiếng việt
- Tin học
- Tiếng Anh
- Đạo đức
- Lịch sử và Địa lí
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- Lớp 6
- Công nghệ
- Tin học
- Lịch sử và Địa lí
- GDCD
- Ngữ văn
- Toán học
- Khoa học tự nhiên
- Tiếng Anh
- Âm nhạc
- Mỹ thuật
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- Lớp 7
- Tiếng Anh
- GDCD
- Toán học
- Công nghệ
- Tin học
- Ngữ văn
- Lịch sử và Địa lí
- Khoa học tự nhiên
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- Âm nhạc
- Lớp 8
- Tiếng Anh
- GDCD
- Toán học
- Công nghệ
- Ngữ văn
- Khoa học tự nhiên
- Lịch sử và Địa lí
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- GD Thể chất
- Âm nhạc
- Lớp 9
- Tiếng Anh
- GDCD
- Toán học
- Công nghệ
- Tin học
- Ngữ văn
- Khoa học tự nhiên
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- Lịch sử và Địa lí
- Lớp 10
- Hóa học
- Tiếng Anh
- Lịch sử
- Sinh học
- Địa lí
- Vật lí
- Tin học
- Toán học
- GD kinh tế và pháp luật
- Công nghệ
- Ngữ văn
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
- GD Thể chất
- GD Quốc phòng và An ninh
- Lớp 11
- Hóa học
- Tiếng Anh
- Vật lí
- Tin học
- Toán học
- Địa lí
- Công nghệ
- Lịch sử
- Ngữ văn
- Sinh học
- GD Thể chất
- GD Quốc phòng và An ninh
- GD kinh tế và pháp luật
- HĐ trải nghiệm, hướng nghiệp
-
-
- ИССЛЕДОВАТЬ
-
-
-
-
-
-
-
-
- FAVORITES
-
- QandAs
- Ngữ Văn
- Grade 9
- Câu 1 ( 4 điểm):Viết bài văn phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ĐÁ TRỔ BÔNG Nguyễn Ngọc Tư Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói.Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là
Câu 1 ( 4 điểm):Viết bài văn phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ĐÁ TRỔ BÔNG Nguyễn Ngọc Tư Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói.Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là
Câu 1 ( 4 điểm):Viết bài văn phân tích truyện ngắn “Đá trổ bông” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
ĐÁ TRỔ BÔNG
Nguyễn Ngọc Tư
Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói.Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm.Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi.Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi.
Nắng hệt một chảo mật nấu sôi, và những con người bé nhỏ ngụp lặn trong ấy chín nhừ, mặt mày đỏ lựng. Thỉnh thoảng Khờ dừng lại để chờ tôi lúc này hồng hộc thở, bước từng bậc đá bằng đôi chân không biết của ai.Dù nó đã lên xuống núi mười bảy lần trong ngày, gánh nước uống cho chục ngoài hộ dân sống trên ấy.Hỏi Khờ sắp tới nơi chưa, nó kêu xíu nữa. Chữ “xíu” không làm tôi mừng, vì biết mình còn trèo nhiều dốc đá mới chạm chân đỉnh núi trọc bon không cây cối.“Đám đá này mơi mốt trổ bông”, Khờ nói.
Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón.Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn (2) với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.
Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.
Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình.Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu (3) hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.
Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ.Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không
mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa?”
Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch.Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.
Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ (4), nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi. Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.
Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.
Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát.Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.
Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội.Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.
Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.
(Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm, số Xuân Đinh Dậu, 2017)
This anwser using AI, please
Trong truyện ngắn "Đá trổ bông" của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, nội dung chủ yếu tập trung vào nhân vật Khờ - một cậu bé khuyết tật tâm trí sống trên núi Xanh, với những suy nghĩ và hoài bão đơn sơ nhưng đầy chất thơ. Truyện khắc họa sâu sắc cái nhìn về cuộc sống và những ước mơ bình dị, đồng thời phản ánh hiện thực nghiệt ngã của xã hội và những số phận con người vẫn bị cuốn vào guồng quay tất bật của đời sống.
Khờ là hình ảnh của những sinh linh giản dị nhưng tràn đầy nghị lực sống. Dù mang trong mình trí khôn của trẻ con, cậu không những không nản lòng mà còn sẵn sàng lao động, gánh vác cả những công việc nặng nhọc của mình. Cậu gánh nước cho những người dân trong xóm, không ngừng nỗ lực và chưa bao giờ đòi hỏi điều gì cho bản thân. Nhân vật này mang đến cho người đọc một cảm nhận tươi sáng về sự kiên trì và lòng tin tưởng mãnh liệt vào khả năng của bản thân, cũng như những điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai.
Chữ "đá trổ bông" xuất hiện như một ẩn dụ cho những điều tốt đẹp, hy vọng trong cuộc sống. Đối với Khờ, việc đá trổ bông trở thành biểu tượng cho sự trông chờ, cho niềm tin rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn. Câu nói “đá trổ bông chưa?” không chỉ là một câu hỏi đơn giản mà còn là một khát vọng mãnh liệt, là tài sản tinh thần quý giá của nhân vật, giúp cậu tồn tại và vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Niềm tin ấy được Khờ gắn bó với hình ảnh của người mẹ đã bỏ rơi mình, trở thành động lực sống cho cậu.
Truyện còn thể hiện sự thau hóa của xã hội qua cách nhìn của những người dân nuôi Khờ. Họ có việc làm, có cuộc sống nhưng dường như thiếu đi những giá trị tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Họ mất đi khả năng nhìn nhận những điều đơn giản, bởi vì mải mê với cuộc sống vất vả, lo toan từng bữa ăn, nên đã xem nhẹ sự hiện diện của Khờ và những việc cậu đã làm cho họ.
Hình ảnh chiếc thùng nước mà Khờ gánh lên núi đã biểu trưng cho những gánh nặng trong cuộc đời mà cậu đang phải mang vác. Dù đôi chân có nặng nề, tâm hồn cậu vẫn luôn hướng về phía trước, không chịu buông xuôi. Sự lạc quan của Khờ trong mối tương quan với hiện thực như một ánh sáng le lói nơi biên giới của đau khổ và khát vọng. Cách Khờ vượt qua những khó khăn để tiếp tục cuộc sống của mình tạo ra những bài học quý giá về lòng kiên trì và sức mạnh của tình thương.
Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo đưa người đọc vào một thế giới vừa thực tế nhưng cũng rất thơ mộng, nơi những ước mơ giản dị có thể ánh lên giữa thực tại khắc nghiệt. Bằng việc xây dựng nhân vật Khờ và tạo nên một cốt truyện đầy ý nghĩa, nhà văn đã gửi gắm thông điệp về tình yêu thương, hy vọng không bao giờ tắt trong những cuộc đời mà tưởng chừng như rất tăm tối. Truyện ngắn "Đá trổ bông" không chỉ gợi lại những kỷ niệm trong quá khứ mà còn tạo nên những suy tư cho hiện tại và tương lai.
Khờ là hình ảnh của những sinh linh giản dị nhưng tràn đầy nghị lực sống. Dù mang trong mình trí khôn của trẻ con, cậu không những không nản lòng mà còn sẵn sàng lao động, gánh vác cả những công việc nặng nhọc của mình. Cậu gánh nước cho những người dân trong xóm, không ngừng nỗ lực và chưa bao giờ đòi hỏi điều gì cho bản thân. Nhân vật này mang đến cho người đọc một cảm nhận tươi sáng về sự kiên trì và lòng tin tưởng mãnh liệt vào khả năng của bản thân, cũng như những điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai.
Chữ "đá trổ bông" xuất hiện như một ẩn dụ cho những điều tốt đẹp, hy vọng trong cuộc sống. Đối với Khờ, việc đá trổ bông trở thành biểu tượng cho sự trông chờ, cho niềm tin rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn. Câu nói “đá trổ bông chưa?” không chỉ là một câu hỏi đơn giản mà còn là một khát vọng mãnh liệt, là tài sản tinh thần quý giá của nhân vật, giúp cậu tồn tại và vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Niềm tin ấy được Khờ gắn bó với hình ảnh của người mẹ đã bỏ rơi mình, trở thành động lực sống cho cậu.
Truyện còn thể hiện sự thau hóa của xã hội qua cách nhìn của những người dân nuôi Khờ. Họ có việc làm, có cuộc sống nhưng dường như thiếu đi những giá trị tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Họ mất đi khả năng nhìn nhận những điều đơn giản, bởi vì mải mê với cuộc sống vất vả, lo toan từng bữa ăn, nên đã xem nhẹ sự hiện diện của Khờ và những việc cậu đã làm cho họ.
Hình ảnh chiếc thùng nước mà Khờ gánh lên núi đã biểu trưng cho những gánh nặng trong cuộc đời mà cậu đang phải mang vác. Dù đôi chân có nặng nề, tâm hồn cậu vẫn luôn hướng về phía trước, không chịu buông xuôi. Sự lạc quan của Khờ trong mối tương quan với hiện thực như một ánh sáng le lói nơi biên giới của đau khổ và khát vọng. Cách Khờ vượt qua những khó khăn để tiếp tục cuộc sống của mình tạo ra những bài học quý giá về lòng kiên trì và sức mạnh của tình thương.
Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo đưa người đọc vào một thế giới vừa thực tế nhưng cũng rất thơ mộng, nơi những ước mơ giản dị có thể ánh lên giữa thực tại khắc nghiệt. Bằng việc xây dựng nhân vật Khờ và tạo nên một cốt truyện đầy ý nghĩa, nhà văn đã gửi gắm thông điệp về tình yêu thương, hy vọng không bao giờ tắt trong những cuộc đời mà tưởng chừng như rất tăm tối. Truyện ngắn "Đá trổ bông" không chỉ gợi lại những kỷ niệm trong quá khứ mà còn tạo nên những suy tư cho hiện tại và tương lai.
Ответить
© 2025 Học Tốt Online - Chia Sẻ Tài Liệu Học Tập và Giải Bài Tập Miễn Phí
Russian
